– Triệu chứng thứ nhất là đời sống bít kín, không có những quan hệ tiếp xúc và trao đổi qua lại với những người đang cùng có mặt trong môi trường sinh sống hằng ngày, thậm chí xuyên qua liếc nhìn «mắt chạm mắt», hay là «đưa ngón tay trỏ» chỉ đồ vật mong muốn,
– Triệu chứng thứ hai là ngôn ngữ bị rối loạn dưới nhiều hình thức khác nhau, hay là hoàn toàn không có mặt,
– Triệu chứng thứ ba là vấn đề «lặp đi lặp lại» những câu nói hay là tác phong, một cách máy móc và tự động, gần như suốt ngày, nhất là khi trẻ em không có việc gì để làm, để nhìn, để nghe hay là để tiếp cận bằng xúc giác,
– Triệu chứng thứ bốn là những hành vi bạo động và tấn công kẻ khác hay là hủy hoại chính mình, như nhổ tóc, đập đầu vào vách tường, cắn mạnh vào tay và gây ra những vết thương trầm trọng…
– Triệu chứng sau cùng là những bộ điệu và cách đi đứng lạ lùng, kỳ dị, những cách làm khác thường, như áp tai xuống sát mặt đất để lắng nghe, ngắm nhìn một cách say mê những hạt bụi, những tia nắng, những kẽ hở… Một số trẻ em có những cơn động kinh nhẹ và nặng. Một số trẻ em khác có thói quen «nhìn trời đất, trăng sao… và phát âm một mình», cơ hồ đang trao đổivà chuyện trò một cách hăng say, với những bóng hình tuy dù xa xôi, nhưng vẫn hiện thực…
Tuy nhiên, như tôi đã nhấn mạnh lui tới nhiều lần, với một trẻ em DƯỚI SÁU TUỔI, và nhất là khi tất cả năm triệu chứng trên đây chưa được hội tụ một cách đầy đủ, rõ ràng và khách quan, chúng ta cần có thái độ thận trọng và dè dặt, không bao giờ áp đặt nhãn hiệu Hội Chứng Tự kỷ, một cách quá vội vàng và chủ quan.
Thay vào đó, cách đây chừng trên dưới 10 năm, cách nhà chuyên môn thường dùng cách nói «có nguy cơ tự kỷ». Từ đó, cách làm và thái độ được đề nghị là «can thiệp tức khắc, càng sớm càng tốt».
Hẳn thực, càng phát hiện và can thiệp sớm như vậy, chúng ta càng có nhiều cơ may tạo ra những điều kiện thuận lợi tối đa, nhằm giúp những trẻ em có nguy cơ tự kỷ, có thể chận đứng kịp thời những rối loạn đang thành hình. Trong trường hợp ngược lại,những triệu chứng sẽ dần dần lan tỏa ra, từ địa hạt phát triển nầy sang qua địa hạt phát triển khác, trong suốt thời gian và giai đoạn từ 0 đến 7 tuổi.
Chính vì lý do nầy, các tài liệu y khoa và giáo dục đương đại, cũng như các hội nghị quốc tế đã đề nghị sử dụng cách nói «trẻ em PDD» (Pervasive Developmental Disorders), hay là «TED» (Troubles Envahissants du Développement).
– Disorders trong tiếng Anh, hay là Troubles trong tiếng Pháp có nghĩa là những rối loạn,
– Developmental hay là
Développement: địa hạt phát triển,
– Pervasive (to pervade) hay là Envahissant (envahir): lan tỏa, lấn chiếm.
Tuy nhiên, với một số trẻ em, trong điều kiện và hiện tình tiến bộ của y khoa cũng như của bao nhiêu phương pháp giáo dục và sư phạm, hội chứng Tự kỷ vẫn chưa được chận đứng một cách hoàn toàn, mỹ mãn và dứt điểm.
Hiện thời, khắp đó đây, nhất là trong các xứ sở văn minh và tiến bộ, nhiều công trình nghiên cứu đang được thực hiện một cách qui mô, nhằm tìm cách giải đáp hai loại câu hỏi khác nhau:
– Câu hỏi thứ nhất: Hội chứng Tự kỷ phát xuất từ yếu tố bẩm sinh, từ gên hay là từ những điều kiện của môi trường?
– Câu hỏi thứ hai: Con em của chúng ta, từ ngày sinh ra hay là trong suốt tiến trình tăng trưởng và phát triển, đang trình bày những rối loạn «lan tỏa và lấn chiếm», trong bốn địa hạt cảm giác, tư duy, xúc động và quan hệ xã hội. Trước tình huống ấy, với tư cách là cha mẹ, thầy cô, hay là những người có trách nhiệm trong xã hội, chúng ta có thể và có bổn phận làm những gì cụ thể và hữu hiệu trong tầm tay của chúng ta?
Cuốn sách này, với tụa đề «Nguy Cơ Tự kỷ, nơi trẻ em từ 0 đến 7 tuổi» (Hè 2006), sẽ trả lời một phần nào cho cả 2 câu hỏi ấy. Những chương đầu sẽ lần lượt giới thiệu bốn đường hướng giải quyết:
– Thứ nhất, khi đứng trước một trẻ em có nguy cơ tự kỷ, việc đầu tiên chúng ta cần làm, là xác định mức độ phát triển hiện tại của em, bao gồm: – Những điều trẻ em đã có thể làm một mình, – Những điều trẻ em chưa thể nào làm được với bất kỳ giá nào, – Sau cùng, những điều trẻ em bắt đầu dám làm và muốn làm, tuy dù chưa thành tựu, dưới sự hướng dẫn khích lệ của chúng ta.
– Thứ hai, dựa trên những khởi điểm ấy, chúng ta đề xuất một dự án can thiệp, giáo dục và dạy dỗ. Những mục tiêu cụ thể, chúng ta quyết định nhắm tới và thực hiện, bao gồm những yếu tố nào? Trong các chiều hướng chọn lựa ấy, ưu tiên số một là gì? Nói khácđi, đâu là điều quantrọng bậc nhất cần được đặt lên HÀNG ĐẦU, trong những điều chúng ta thành tựu với trẻ em và cho trẻ em?
– Thứ ba, kế hoạch hành động của chúng ta là gì ? Với những động tác cụ thể nào, chúng ta tìm cách thực hiện dự án mà chúng ta đã thiết lập? Nói cách khác, ngày hôm nay, tôi có trách nhiệm làm những gì thuộc ƯU TIÊN SỐ MỘT, để giúp trẻ em có khả năng chuyển biến dự án thành hiện thực trong tầm tay và cuộc sống? Thay vì ôm đồm, để rồi tràn ngập, mất an lạc và sáng suốt, chúng ta hãy từng bước nho nhỏ đi lên, một cách kiên định và xác tín.
– Thứ bốn, chúng ta sẽ đánh giá kết quả như thế nào, sau những kỳ hạn với bao lâu tháng và năm ? Nếu kết quả thành đạt, chúng ta cần tiếp tục làm những gì? Trái lại, khi không có những thành tựu, như đã được dự trù, chúng ta sẽ có những thái độnào? Đổi thay những gì?
Một trong những tiêu chuẩn đánh giá quan trọng bậc nhất là điều kiện hòa hợp môi trường và môi sinh.
Hẳn thực, mỗi trẻ em – cho dù ở trong một hoàn cảnh khó khăn đến độ nào – vẫn là một CON NGƯỜI toàn bích và toàn diện, thực sự và trọn vẹn, có những giá trị tự tại, cần được mọi người tôn trọng, trong mỗi quan hệ tiếp xúc qua lại hai chiều.
Ích lợi gì khi trẻ em lặp lại được một đôi từ, phát ra một đôi âm, hay là làm được một số tác động… mà phải trả một giá rất đắt là «bị đánh đập, đe dọa, trừng phạt», nghĩa là bị cư xử, đối đãi như một đồ vật, một con vật?
Nói khác đi, trẻ em – cho dù ở trong một tình huống rối loạn đến độ nào chăng nữa – cũng vẫn có khả năng từ từ tiếp thu, ghi nhận và hội nhập những động tác làm người như XIN, CHO, NHẬN và TỪ CHỐI. Nhằm thâu đạt kết quả ấy, điều kiện tiên quyết là chính chúng ta – cha mẹ, giáo viên vànhững người trưởng thành trong môi trường xã hội – cần sống và thực hiện với nhau, cũng như với con em của mình, những quan hệ hài hòa, xây dựng, tôn trọng và thấm nhuần bản sắc LÀM NGƯỜI.
Bốn yếu tố vừa được nêu lên, trong cách giáo dục và dạy dỗ của chúng ta, còn mang tên là «Tư Duy Cấu Trúc». Nhờ vào kỹ năng nầy, chúng ta sống thức tỉnh hay là ý thức, có nghĩa là nhận biết rõ ràng cách thức mình sẽ giải quyết mỗi vấn đềđang xảy ra:
– Hiện tại tôi đang ở đâu?
– Tôi đi đến đâu?
– Tôi quyết định sử dụng con đường nào?
– Trong hành trang của tâm hồn, tôi mang sẵn những năng động nào?
– Đồng thời, đâu là những bị động, còn len lỏi nằm vùng trong đáy sâu của tâm hồn, có thể cản trở bước chân vươn tới và thực hiện của tôi?
– Một cách đặc biệt, những loại xúc động nào đang làm cho tâm hồn và tư duy của tôi bị tràn ngập và tê liệt hoàntoàn?Hẳn thực, chính tôi bị rối loạn, đến độ tôi có mắt nhưng không còn thấy. Tôi có tai nhưng không còn nghe. Tôi có tay chân, làn da, nhưng không còn cảm nhận, nhạy bén truớc những nhu cầu và yêu cầu của đứa con sinh ra từ cõi lòng của tôi.
Trong tinh thần và lăng kính ấy, lắng nghe trẻ em đang nói một thứ ngôn ngữ «không lời», cùng ĐI với trẻ em trên những nẻo đường «cô đơn và cô độc», mở rộng hai cánh tay và cõi lòng, để «đón nhận vô điều kiện» trẻ em, đó là những điều quan trọng.
Kỳ dư, tôi sẽ đến đâu? Đến khi nào?
Về hai câu hỏi nầy, Cha Ông Tổ Tiên chúng ta đã trả lời: Có Nhân Hòa, tự khắc có Thiên Thời và Địa Lợi trong cõi lòng và cuộc đời của chúng ta. Nhân Hòa phải chăng là «Định Lý», theo cách nói và lối nhìn của tác giả Douglas M. ARONE, có khả năng điều hướng và điều hợp mọi dự án và kế hoạch của chúng ta? Nhân Hòa phải chăng là động cơ đang thúc đẩy chúng ta sáng tạo một cuộc sống có những chiều kích thíchhợp với một trẻ em, đang bị Hội Chứng Tự kỷ đe dọa, trong từng tế bào và thớ thịt của mình?
Xác định Mức Độ Phát Triển hiện tại của trẻ em
Lượng giá mức độ phát triển hiện tại của một trẻ em có nguy cơ tự kỷ là cách làm đầu tiên cần được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và khoa học, trước tất cả mọi toan tính và dự định can thiệp, giáo dục và dạy dỗ. Hẳn thực, không bắt đầu từ điểm xuất phát nầy, tất cả những dự án, mà chúng ta thiết lập «vì trẻ em và cho trẻ em», chỉ là «nước rơi đầu vịt», hay là «dã tràng xe cát bể đông».
Can thiệp hay là giáo dục và dạy học, lúc bấy giờ, chỉ là áp đặt từ bên ngoài, từ trên rót xuống, sử dụng mọi phương tiện bạo động nhằm cưỡng chế trẻ em phải thay đổi, một cách máy móc và tự động.
Dạy cho trẻ em bài học làm người, trái lại, là «cùng làm người một cách thực sự và trọnvẹn với trẻ em», bằng cách giúp trẻ em từ từ sống tự lập, tùy theo lứa tuổi khôn lớn và mức độ phát triển tâm lý của mình. Làm người như vậy là biết chọn lựa và quyết định, cũng như ngày ngày thực thi một cách có ý thức, những giá trị khả dĩ thăng tiến bản thân và cuộc đời.
1.- Ba Vùng Sinh Hoạt
Trong thực tế hành động, để thực thi công việc lượng giá như vậy, tác giả Eric SCHOPLER đã sở hữu hóa lối nhìn của L.S. VYGOTSKY, về phương thức xác định ba VÙNG SINH HOẠT của trẻ em.
– Vùng thứ Nhất mang tên là vùng tự lập. Ở đây, trẻ em đã có khả năng sống một mình, làm một mình, chơi một mình, không cần có sự giúp đỡ hoặc khích lệ của một người lớn.
– Vùng thứ Ba mang tên là vùng xa lạ. Ở đây, với những điều kiện tâm lý hiện tại, trẻ em không có khả nănglàm chủ tình hình, hay là không thể nào thực hiện một điều gì, cho dù với sự giúp đỡ và khích lệ tối đa của một người lớn. Nếu bị ép buộc phải sinh hoạt, trong vùng xa lạ nầy, trẻ em sẽ tức khắc từ chối, bằng những hành vi chạy trốn, khóc la, nhắm mắt, bịt tai, ngoảnh mặt nhìn chỗ khác. Nếu người lớn không hiểu cách từ chối của trẻ em, vẫn tiếp tục thúc ép, đòi hỏi, áp đặt… trẻ em sẽ từ từ thoái hóa, sa vào tình trạng tê liệt, bị động, ù lì và trầm cảm nặng.
– Vùng thứ Hai, nằm ở giữa hai vùng kia, mang tên là vùng học tập hay là vùng trung gian. Khi nhận thấy trẻ em đang sinh hoạt một cách tự lập và bộc lộ ra ngoài thái độ vui thích và hứng khởi, một người lớn có những hiểu biết tâm lý và khả năng sư phạm, sẽ nhẹ nhàng tiến lại gần, quan sát, đưa mắt nhìn, tạo quan hệ qua lại hai chiều. Từ đó, chúng ta có thể đề nghị thêm một điều nho nhỏ,vừa tầm đón nhận và tiếp cận củatrẻ em. Với phương thức tác động nầy – nếu được tổ chức một cách có hệ thống, bao gồm những bước đi lên từ dễ đến khó -trẻ em sẽ càng ngày càng nới rộng ra vùng sinh hoạt tự lập và vui thích của mình. Đồng thời, vùng xa lạ sẽ lùi dần và nhường bước cho vùng học tập.
2.- Nụ cười xã hội: một minh họa cụ thể
Nhằm minh họa cách làm nầy, tôi xin đan cử một ví dụ cụ thể. Sau một vài ngày hay là hai ba tuần lễ, từ khi sinh ra, một trẻ thơ đã có nụ cười sinh lý, khi nằm một mình trong nôi hay là trong giấc ngủ. Nụ cười sinh lý nầy chỉ là một phản ứng tự nhiên, bột phát, khi trẻ em cảm thấy mình được ấm no, thoải mái, dễ chịu, trên bình diện cơ thể.
Nếu người mẹ chớp thời cơ, đón nhận nụ cười của đứa con, với một tâm hồn sung sướng và hạnh phúc, bà sẽ tìm lời khen con, trao đổi với con, đồng thời nở nụ cườiđáp lại với con, cho con.
Với cách làm nầy của người mẹ, được ngày ngày diễn đi diễn lại, nhằm nối dài và phản ảnh một phản ứng tự nhiên của đứa con… sau chừng hai tháng, nụ cười sinh lý của đứa con sẽ chuyển biến thành nụ cười xã hội. Từ đây, hai mẹ con trao đổi nụ cười qua lại với nhau, hạnh phúc với nhau, làm người với nhau. Cuộc đời trở thành một ý nghĩa lung linh và diệu vợi cho cả hai mẹ con.
3.- Mục đích của Bản Lượng Giá
Chương nầy cũng như những chương kế tiếp, trình bày Bản Lượng Giá Mức Độ Phát Triển của Trẻ em, với đầy đủ mọi tin tức cần thiết. Đây là một phương tiện giáo dục và sư phạm, cần có mặt trong tầm tay và khả năng của các bậc cha mẹ, giáo viên và tất cả những ai muốn phục vụ trẻ em có nguy cơ tự kỷ. Nhờ vai trò trung gian của «chiếc cầu» nầy, mọi người có cơ hội đến với nhau, trao đổi qua lại hai chiều. Một cáchchân tình và trực tiếp, họ chia sẽ và đồng hành. Chung quanh bản Lượng Giá, họ «biết ngồi lại với nhau, cùng nhau nhìn về một hướng». Hướng đó là Trẻ Em có nguy cơ Tự kỷ.
Trước tất cả và hơn tất cả, với bản Lượng Giá nầy, cha mẹ, giáo viên, bác sĩ và các nhà chuyên viên… cùng HỌC với nhau, để DẠY bài học làm người cho con em của chúng ta. Phải chăng trong cái HỌA lớn lao – là nguy cơ Tự kỷ – cái PHƯỚC vẫn có mặt tràn trề lai láng, cho những ai biết NHÌN và đón nhận? Trong điều kiện và thân phận làm người ngày hôm nay, không có cái XẤU tuyệt đối, cũng như không có cái TỐT hoàn toàn, viên mãn. Nguy cơ Tự kỷ đang đe dọa con em của chúng ta. Tuy nhiên, phải chăng đó cũng là một THÁCH ĐỐ kỳ hùng, một CƠ MAY diệu vợi, để mỗi người trong chúng ta đánh thức chính mình: đổi mới lối nhìn, tư duy, cách làm, lề lối giáo dục và toàn diện con người của chúng ta, trong mọi quan hệ giữa người với người?
4.- Nội dung của bản Lượng Giá
Như tôi đã trình bày trong ví dụ minh họa trên đây, khi một trẻ em sơ sinh vừa có tuổi đời dưới 2 tháng, nụ cười sinh lý là một sinh hoạt tự lập. Không cần ai dạy, trẻ em tự nhiên có nụ cười ấy, như một hạt mầm có sẵn trong mảnh đất bản thân và cuộc đời làm người của mình. Nhờ bà mẹ cũng như những người trong gia đình trông nom, vun trồng và tưới tẩm, khích lệ, khen thưởng và củng cố, trong suốt thời gian độ 2-3 tháng, nụ cười sinh lý ấy sẽ từ từ trở thành một phương tiện hay là một khả năng, trong lãnh vực tiếp xúc và trao đổi xã hội.
Ngoài nụ cười sinh lý ấy, trong giai đọan và lứa tuổi từ 0 đến 7 tuổi (84 tháng), một trẻ em – cho dù có nguy cơ tự kỷ – còn có bao nhiêu khả năng tự nhiên và tự lập nào, có vai trò và giá trị tương đương, giống như vậykhông?
Để trả lời cho câu hỏi nầy, một cách khoa học, nghĩa là chính xác, khách quan và cụ thể, tác giả Eric SCHOPLER cùng với các bạn đồng nghiệp, vào những năm từ 1979 đến 1988, trong hai đợt làm việc với 420 trẻ em, đã sáng tạo và kiện toàn một Bản Lượng Giá, bao gồm 174 tiết mục.
Thực ra, Bản Lượng Giá chỉ bao gồm 131 câu hỏi, nhằm khảo sát và xác định mức độ phát triển tâm lý của trẻ em. Cộng vào đó, trong suốt tiến trình làm việc cũng như trong thời gian nghỉ ngơi giải lao ở giữa, kéo dài ước chừng trên dưới 5-10 phút, người cán bộ có trách nhiệm lượng giá, phải quan sát hành vi của trẻ em, để trả lời thêm 43 tiết mục có liên hệ đến các triệu chứng rối loạn thuộc hội chứng tự kỷ.
Xét về nội dung cụ thể, mức độ phát triển được khảo sát và phát hiện trong 7 địa hạt khác nhau sau đây:
1.- Bắt chước (Bc): 16 câu hỏi hay tiết mục,
2.- Nhận Thức (Nt): 13 câu hỏi,
3.- Vận động tinh (Vđt): 16 câu hỏi,
4.- Vận động thô (Vđth): 18 câu hỏi,
5.- Phối hợp mắt và tay (Ph): 15 câu hỏi,
6.- Kỹ năng tư duy (Td): 26 câu hỏi,
7.- Kỹ năng ngôn ngữ (Nn): 27 câu hỏi.
Trên bình diện «Rối loạn Hành Vi», chúng ta sẽ chú ý vào 2 lãnh vực«Quan hệ và Xúc động», quyện sát và giao thoa vào nhau, cũng như tạo ảnh hưởng, tác động qua lại hai chiều.
Một cách cụ thể, chúng ta sẽ đo lường mức độrối loạn có liên hệ đến Hội Chứng Tứ Kỷ, trong 4 địa hạt sau đây:
– Địa hạt thứ nhất là khả năng tiếp xúc và tạo quan hệ, được thể hiện qua những hành vi cụ thể nhưlắng nghe, ghi nhận, tuân hành chỉ thị của người lớn. Rối loạn về quan hệ viết tắt là RlQh.
– Địa hạt thứ hai là khả năng và thể thức tiếp cận các loại dụng cụ, với 5 giác quan khác nhau, nhất là khi chơi đùa hay là thực hiện một công việc. Rối loạn về giác quan viết tắt là RlGq.
– Địa hạt thứ ba là khả năng sử dụng ngôn ngữ, bắt đầu từ những sinh hoạt phát âm, lặp lại, diễn tả, thông đạt. Rối loạn về ngôn ngữ viết tắt là RlNn.
– Địa hạt thứ bốn là khả năng bộc lộ ra bên ngoài những ý thích, năng động và hứng khởi, xuất phát từ những động cơ thúc đẩy ở bên trong nội tâm, thay vì ù lì, bị động, chấp nhận tất cả những gì do kẻ khác áp đặt, lèo lái và điều khiển từ bên ngoài. Rối loạn về Ý thích, sáng kiến và năng động, viết tắt là RlYt.
5.- Mô tả Bản Lượng Giá
Như tôi trình bày trên đây, Bản lượng giá gồm có 174 đề mục, trong đó có 131 câu hỏi với những dụng cụ sư phạm đi kèm theo nhằm phát hiện và khảo sát mức độ phát triển của trẻ em. Ngoài ra, có thêm 43 đề mục nhằm quan sát hành vi và đo lường mức độ rối loạn của trẻ em, trong bốn địa hạt thuộc sinh hoạt xúc động và quan hệ xã hội.
Những câu hỏi không được xếp đặt theo thứ tự từ dễ đến khó, tùy theo lứa tuổi khôn lớn và phát triển của trẻ em từ 0 tháng (0 tuổi) đến 84 tháng (7tuổi). Trái lại, tất cả 131 câu hỏi thuộc 7 địa hạt phát triển khác nhau, được hòa trộn lẫn lộn vào nhau, trong giai đoạn khảo sát trẻ em. Tiếp sau đó, vào giai đoạn tổng hợp kết quả bằng số lượng, chúng ta sẽ phân định và đối chiếu 7 địa hạt phát triển với nhau, nhằm phát hiện, trong sơ đồ biểu diển, đâu là điểm MẠNH và điểm YẾU hay là điểm CAO và điểm THẤP của trẻ em.
Một nhận xét cuối cùng về Bản Lượng Giá là sau mỗi đề mục, chúng ta sẽ CHẤM ĐIỂM, theo 3 thể thức khác nhau:
– Thứ nhất là Điểm CỘNG (+ ): Trẻ em thành tựu, biết trả lời đúng đắn, mặc dù một đôi khi cần sự hướng dẫn và khích lệ của người lón.
– Thứ hai là Điểm CỘNG và TRỪ (+/-): trẻ em có thiện chí và ý định trả lời, cũng như hợp tác và lắngnghe, tuy dù kết quả cuối cùng không đạt chỉ tiêu. Cách trả lời nầy, trong lối dùng từ của Eric SCHOPLER, mang tên là Sơ Phác, Chớm Nở, Hiện Hình. Lối nói trong tiếng Anh là Emergence có nghĩa là vùng đứng lên, nổi dậy, hé nở, khởi sắc.
– Thứ ba là Điểm TRỪ (-): Trẻ em không muốn, không biết và không tìm cách làm, mặc dù được người lớn hướng dẫn, nâng đỡ và khích lệ tối đa, bằng nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, khích lệ như vậy không có nghĩa là ép buộc, cưỡng chế, áp đặt, sử dụng bạo động, trừng phạt, đe dọa.
6.- Sư Phạm «Xây Dựng»
Ba cách trả lời «Thành tựu, Thất bại và Chớm nở», có liên hệ đền 174 Tiết Mục, thuộc 9 địa hạt phát triển khác nhau, sẽ giúp chúng ta phân định ba Vùng Sinh Hoạt Tự lập, Xa lạ và Học tập của trẻ em.
– Dựa vào Vùng Tự lập (+), chúng ta khám phá và tạo ra những vui thích và năng động cho trẻ em. Mỗi lần trẻ em gặp vấn đề, khó khăn, trắc trở, chúng ta giúp trẻ em đi lui, quay trở về với các sinh hoạt trong Vùng Tự lập, để tìm lại lòng tự tin, hay là ý thức về khả năng hiện thực của mình.
– Khi có những dấu hiệu cho thấy trẻ em đang bước vào Vùng Xa lạ (-), chúng ta hãy sáng suốt và can đảm sáng tạo những dụng cụ sư phạm, nhằm giúp trẻ em dừng lại, «Tri chỉ». Ngoài ra, trong quan hệ tiếp xúc, chúng ta không «cố tình xô đẩy» trẻ em vào địa hạt Hành Vi Rối Lọan hay là Triệu Chứng, nghĩa là từ chối, chống đối, phản loạn, một cách vô thức, máy móc và tự động.
– Sau cùng, chúng ta tìm cách khích lệ, khen thưởng và củng cố, khi trẻ em đang rụt rè bước vào Vùng Học tập (+/-). Làm như vậy là giúp trẻem VÙNG ĐỨNG LÊN, thành người, làm chủ thể, chọn lựa cho mình những sinh hoạt vui thích, sáng tạo, hứng khởi, năng động, cho dù vào những lúc ban đầu, thời gian sinh hoạt học tập nầy chỉ kéo dài vài ba phút.
«Cháo nóng húp quanh» hay là «Kiến tha lâu đầy tổ», phải chăng đó là phương thức Sư Phạm Xây Dựng, chúng ta tất cả cần tiếp thu, học tập và hội nhập? Trọng tâm ở đây là phát huy những năng động đã có mặt, thay vì «gồng mình», tìm cách hạn chế những triệu chứng, những hành vi rối loạn và bị động.
Theo lời người xưa, điều chúng ta cố quyết làm cho con em có nguy cơ tự kỷ là «Minh minh Đức», có nghĩa là ngày ngày can đảm «Thắp sáng lên ngọn đèn đã sáng», nơi chính chúng ta và nơi trẻ em. Hẳn thực, cơ hồ khi có những vết mực, trên bề mặt của một chiếc bong bóng tròn bằng cao su, thay vì tìm cách tẩy xóa, chúng ta thổi phòng chiếc bong bóng to lên. Lúc bấy giờ, nhữnghình vẽ trang trí sẽ nỗi bật và lớn lên. Trái lại, những vết nhơ sẽ trở thành KHÁC, trong một KHUNG CẢNH KHÁC, được chấp nhận và đón nhận với một tâm trạng, thái độ và lối nhìn khác.
Phải chăng đó là loại Sư Phạm «CHUYỂN HÓA» cần được áp dụng cho các trẻ em có nguy cơ tư kỷ? Hẳn thực, chúng ta «làm mà như không làm», làm theo tinh thần «Vi vô vi, Sự vô sự» của Lão Tử, cơ hồ Mặt Trời tỏa ra ánh sáng và hơi ấm, để tạo điều kiện thuận lợi cho «Cây nào thành cây ấy», không cưỡng chế, không áp đặt.
Hẳn thực, «chân vịt thì ngắn, muốn kéo ra cho dài, nó khổ. Chân ngổng thì dài, tìm cách chặt ngắn đi, nó chết».
Vai trò quan trọng của Não bộ Hệ Viền, trong đời sống của con người, với ba cấu trúc chính yếu là Đồi Thị, Hạnh Nhân và Hải Mã.
– Hải Mã (Hippocampus) là cấu trúc có chức năng tàng trử mọi tin tức đã được thu nhận trong quá khứ, bây giờ trở thành những hoài niệm.
– Đồi Thị (Thalamus) là cấu trúc đầu tiên của Hệ Viền (Limbic), có chức năng tiếp thu và phân phối mọi tin tức hiện tại, do các vùng ngoại vi của cơ thể gửi về, để Tân Võ Não (Neocortex) phân tích, cứu xét nhằm đề nghị những cách đáp ứng thích hợp và có ý thức.
– Trong số những tin tức do ngoại vi gửi về, những tin tức có tính khẩn trương được Đồi Thị gửi thẳng đến HẠNH NHÂN (Amygdala) thuộc cùng một Hệ Viền. Phần vụ của cấu trúc nầy là tham cứu kho hoài niệm thuộc Cấu trúc Hải Mã, ở sát bên cạnh, và tức thì phát ra những mệnh lệnh cấp tốc, để các bộ phận có liên hệ, phải chấp hành, không trì hoản.
– Đồng thời với mệnh lệnh cấp tốc được phát đi, Hạnh nhân phong tỏa mọi con đường đưa tin còn lại, bằng cách ra lệnh nhả ra trong đường máu những hóa chất như Adrénaline, nhằm nâng cao mức độ canh thức, đề phòng và phấn đấu.
– Khi làm những công việc khẩn trương nầy, Hạnh Nhân không cần phải tham khảo ý kiến của Tân Võ Não. Cấu trúc nầy là trung tâm của Tư duy có phần vụ đề xuất những chương trình quan trọng, dài hạn thuộc đời sống có ý thức.
– Một cách cụ thể và rõ ràng hơn, Hạnh Nhân thuộc Não bộ Hệ viền, có phần vụ chính yếu là điều hợp và quản lý đời sống xúc động. Chính vì lý do nầy, khi xúc động trở thành vấn đề khẩn trương, mọi con đường của Tư duy phải bị phong tỏa, tê liệt và vô hiệu hóa. Nói khác đi, bao lâu những xúc động như lo sợ, buồn phiền, tức giận đang tràn ngập nội tâm, chúng ta có mắt nhưng không còn thấy. Có tai nhưng không còn nghe. Tư duy có mặt, nhưng bị khống chế và vô hiệu hóa hoàn toàn.
Vừa rồi đây, trong tuần lễ đầu tiên của năm 2006, với tác phẩm “The Theorem”, (Nhà Xuất Bản O Books, tại Winchester UK), tác giả người Anh, Douglas M. ARONE cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng và chức năng của Não bộ Hệ Viền, nhất là của cấu trúc Hạnh Nhân, trong toàn thể đời sống tiềm thức hay là vô thức của con người.
Thực ra, tác giả đã đưa ra một “Nguyên Lý”, với những chứng minh khoa học và khách quan, nhằm giải thích một cách rất rõ ràng nguồn gốc của mọi loại hành vi rối loạn nơi con người. Trong khuôn khổ của chương sách này, tôi chỉ chọn lựa khảo sát quan điểm khoa học của Douglas M. ARONE về Hội chứng Tự kỷ mà thôi. Sau đây là 4 trọng điểm sẽ được lần lượt trình bày:
– 1) Hai chu kỳ sinh hoạt và phát triển của bào thai trong tử cung của bà mẹ,
– 2) Nét khác biệt chủ yếu giữa một thai nhi thông thường và một thai nhi có “mầm móng” nguy cơ tự kỷ, vào cuối tam cá nguyệt đầu tiên, sau khi tinh trùng của người cha và noãn bào của người mẹ đã kết hợp với nhau.
– 3) Những dấu hiệu báo động đầu tiên của một hài nhi có mầm mống tự kỷ, từ 0 đến 6 tuổi.
– 4) Những chuyển biến có thể xảy ra, trước khi Hội Chứng Tự kỷ trở thành cố định.
Phần thứ Nhất : Hai chu kỳ phát triển
Từ ngày hai tác giả Leo KANNER và Hans ASPERGER, vào những năm 1943-1944, đã phát hiện Hội chúng Tự kỷ, hai vấn nạn thường được nêu lên trong các tác phẩm và công trình nghiên cứu:
– Vấn nạn thứ nhất: Hội chứng Tự kỷ xuất hiện vào giai đọan phát triển nào, trong đời sống của một trẻ em?
– Vấn nạn thứ hai: Nguyên nhân nào đã phát sinh Hội chứng Tự kỷ? Nguyên nhân ấy thuộc Bẩm sinh hay là xuất phát từ Môi Trường sinh thái như gia đình và xã hội?
Trong vòng hơn một nửa thế kỷ, bao nhiêu chủ thuyết đã đề xuất nhiều lối giải thích, nhiều cách thuyên giải mâu thuẫn và đối kháng lẫn nhau. Tất cả mọi quan điểm ấy đều còn là giả thuyết chưa bao giờ được chứng minh, một cách khoa học, với những sự kiện cụ thể và khách quan, mà mỗi người có thể kiểm nghiệm một cách dễ dàng, trong cuộc sống hằng ngày.
Douglas M. ARONE, trái lại, sau hơn 10 năm nghiên cứu, đã xuất bản công trình của mình, chung quanh cuối năm 2005 và đầu năm 2006. Tác giả đặt tên cho tác phẩm vừa ra đời, là “ĐỊNH LÝ”, có khả năng trả lời một cách rốt ráo và đầy đủ nguyên nhân nào phát sinh và giải thích hành vi của con nguời. Nói khác đi, Định Lý hay là “The Theorem” trong tiếng Anh, theo cách định nghĩa của Tự Điển Learner’s Dictionary- Collins COBUILD là “a statement in mathematics or logic that can be proved to be true by reasoning”. Hẳn thực tác giả đã chứng minh (proving) luận đề, với rất nhiều dữ kiện cụ thể và khách quan. Cách lý luận (reasoning) của tác phẩm “Định Lý”có giá trị thuyết phục rất cao, so với tất cả mọi công trình đã có mặt, từ trước cho tới nay.
Tác phẩm của Douglas M. ARONE bắt đầu từ những sự kiện quan trọng sau đây:
Trong tử cung của bà mẹ, thai nhi – hay là đứa con trong bào thai – mỗi ngày phải đưa thoi qua lại giữa hai chu kỳ sinh hoạt và phát triển khác nhau:
o Chu kỳ thứ nhất được gọi là “Chu kỳ phát triển đầy lo sợ và kinh hoàng”,
o Chu kỳ thứ hai mang tên là “Chu kỳ phát triển đầy hưng phấn, thoải mái và thú vị”.
Chu kỳ thứ nhất khởi sự vào ban đêm, lúc bà mẹ vào giường, nằm xuống và đón chờ giấc ngủ. Thai sinh, trong chu kỳ nầy, có mức độ thức tỉnh và hoạt động cao. Trên bình diện xúc động trái lại, thai sinh cảm thấy lo âu, khắc khoải, khó chịu, bực bội và bất ổn.
Chu kỳ thứ hai, khởi sự vào lúc ban ngày, khi người mẹ thức dậy, bắt tay vào công việc, vận động và di chuyển từ nơi nầy qua nơi khác. Thai sinh trong chu kỳ nầy có những cảm nghiệm an toàn, thư giản, thoải mái và sung sướng. Trên bình diện sinh hoạt, trái lại, trong suốt chu kỳ phát triển nầy, thai sinh có một tư thế hoàn toàn bất động, nghỉ ngơi và dần dần chìm đắm vào giấc ngủ bình lặng.
Với những phương tiện tân kỳ ngày nay như máy đo điện não đồ, tia sáng laser, chụp hình những tầng lớp khác nhau của Hệ thần kinh trung ương, đo lường những tiếng vọng chạy qua các tầng lớp tế bào khác nhau… tác giả Douglas M. ARONE, cũng như những ai có các phương tiện và chuyên môn tương tự, có thể ghi nhận và quan sát những sự kiện hoàn toàn khách quan có liên hệ đến Não Bộ của thai nhi, khi còn ở trong tử cung của bà mẹ.
Tuy nhiên sự kiện không phải là ý nghĩa. Cho nên dù muốn dù không, khi trình bày quan điểm và lối nhìn của mình, tác giả ARONE cũng giống như tất cả mọi nhà nghiên cứu có tầm cỡ quốc tế, đều phải đi qua con đường THUYÊN GIẢI.
Thuyên giải là rút tỉa và đề xuất Ý nghĩa, sau khi quan sát và ghi nhận Sự kiện một cách khách quan, từ một khía cạnh, một gốc độ được chọn lựa. Thêm vào đó, khi trình bày những nhận định và lối nhìn của mình, ai ai cũng phải sử dụng tư duy có ý thức và ngôn ngữ chính qui, với những cơ chế hạn hẹp nhưng cần thiết và tất yếu, như: tổng quát hóa, chọn lọc và chủ quan hóa.
Không trang bị mình với tất cả những nhận xét và hiểu biết quan trọng ấy, chúng ta sẽ thiếu khả năng lắng nghe và theo dõi lý luận khoa học của ARONE. Tác giả không thể không chọn lọc. Lúc khác, tác giả cần phải làm công việc tổng quát hóa, để rút tỉa những qui luật. Biết lắng nghe, đánh giá và kiểm chứng những gì mà tác giả chia sẻ và đóng góp, chúng ta mới có khả năng sở hữu hóa – nghĩa là chọn làm của mình – “Định Lý” của tác giả.
Trở lại với hai chu kỳ sinh hoạt và phát triển của thai nhi, trong lòng của bà mẹ, chúng ta cần thấy rõ: đó là một qui luật của thiên nhiên nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cuộc sống.
– Nhu cầu thứ nhất: Để hai cuộc sống của hai mẹ con có thể phát triển và tăng trưởng, trong cùng một cơ thể duy nhất, hai mẹ con phải bổ túc cho nhau và phối hợp với nhau, trong những sinh hoạt hằng ngày của mình. Khi mẹ hoạt động, thai sinh đi vào chu kỳ nghỉ và ngủ. Trái lại, khi bà mẹ nằm ngủ và giảm hạ mức độ hoạt động, thai sinh lại đi vào chu kỳ gia tăng hoạt động và phát triển, trong nhiều lãnh vực khác nhau như giác quan, hô hấp, thần kinh và tâm lý…
– Nhu cầu thứ hai: Thai nhi phát triển trong mọi địa hạt, để chuẩn bị ngày đi ra khỏi tử cung của mẹ, với những cử động và phản xạ cần thiết của mình. Ngoài ra, cuộc sống trong tử cung của bà mẹ có phần vụ chuẩn bị cho cuộc sống sau này của đứa bé, trong vùng ánh sáng và không khí. Không phát triển hệ thần kinh, không tập luyện bằng cách này hay cách khác những giác quan như thính, xúc và khứu giác…làm sao đứa bé sẵn sàng tiếp tục con đường phát triển của mình?
– Nhu cầu thứ ba: Khi sống và phát triển trong chu kỳ thứ nhất, thai nhi có những cảm nghiệm về khổ đau và lo sợ. Trái lại, khi chuyển qua chu kỳ thứ hai, lập tức thai sinh biết thụ hưởng những giờ phút vui suớng, hạnh phúc, an bình và thoải mái. Nhờ những cảm nghiệm và kinh nghiệm quí hóa nầy, thai nhi thiết lập những quan hệ gắn bó với bà mẹ của mình. Ngoài ra, Hệ thần kinh trung ương của thai nhi, trong vòng chín tháng, cơ hồ một chiếc máy vi tính, sẽ dần dần ghi lại và lưu giữ trong các tế bào của mình, hai loại kinh nghiệm hoàn toàn khác biệt và đối kháng lẫn nhau ấy. Nhờ vào những tầng lớp tế bào thần kinh có khả năng lưu giữ những tin tức như vậy, cả mẹ lẫn con được chuẩn bị để đối phó với bao nhiêu trắc trở trong lòng cuộc đời.
– Trong khuôn khổn của cuốn sách này, tôi muốn nhấn mạnh một điều sau đây: Nếu cha mẹ, người giáo viên, cũng như những người có trách nhiệm trong lòng xã hội, Quê Hương và nhân loại có khả năng mở mắt nhận ra, giống như tác giả ARONE, khi nào và vì sao trẻ em đau khổ, khi nào và nhờ vào đâu trẻ em hạnh phúc, họ đã bắt đầu có đáp số cho vấn nạn Hành Vi Rối Loạn, hay là cho Hội Chứng Tự kỷ. Từ đó, họ sẽ trang bị mình hay là học tập, để TĂNG CƯỜNG những gì cần tăng cường, HÓA GIẢI những gì cần chuyển biến, LOẠI THẢI bằng phương thức nào, những gì cần loại thải. Phải chăng họ là MẢNH ĐẤT, là môi trường đang đón nhận những hạt giống, những Gên, những vấn đề bẩm sinh? Nếu không có môi trường trông nom, tưới tẩm, nuôi dưỡng, làm sao Gên có thể mọc lên? Nếu môi trường biết củng cố và tăng cường, hạt giống tươi tốt sẽ lớn lên đâm chồi nảy lộc, kết sinh hoa trái. Nếu môi trường biết chuyển hóa, thể theo văn hào người Brésil (Ba Tây) Paulo CUELHO, đồng chì sắt thép trong địa hạt bẩm sinh cũng sẽ có khả năng trở thành Vàng nguyên chất, nhờ sức tác động hữu hiệu của môi trường.
– Cũng theo cách nhận định của ARONE, trong suốt thời gian cưu mang con, nếu có những nguy cơ về sinh mạng cho cả hai mẹ con, Thiên Nhiên luôn luôn đặt người mẹ lên hàng ưu tiên số một. Ngoài ra, người mẹ còn được Thiên Nhiên nâng đỡ, trong vai trò làm mẹ của mình. Ví dụ, với cơ chế “Phong tỏa trí nhớ ngắn hạn”, Thiên Nhiên thay thế người mẹ, tạo điều kiện thuận lợi cho thai nhi, ngay từ những giờ phút đầu tiên, chỉ biết “sống trong giờ phút hiện tại ở đây và bây giờ”. Chẳng hạn, khi sống trong chu kỳ hưng phấn, thai nhi tràn ngập hạnh phúc và bình an. Cuộc sống của thai nhi trong lòng mẹ, lúc bấy giờ, là Niết bàn, là Thiên đàng, là Cõi bồng lai. Cũng giống như vậy, khi sống trong chu kỳ lo sợ, thai nhi đang băn khoăn về số kiếp của mẹ mình. Hẵn thực, mẹ đang im lìm, bất động trong giấc ngủ, sau một ngày bận rộn công việc. Thế nhưng trong cách thuyên giải, thai nhi đang tin tưởng rằng mẹ lâm nguy và đang trải qua những giờ phút hấp hối. Cũng nhờ cách thuyên giải lệch lạc ấy, thai nhi đặt trọng tâm vào mẹ, hướng đến mẹ, tìm cách khám phá hiện tình của mẹ. Phải chăng Thiên nhiên đang sử dụng hai chu kỳ sinh hoạt và phát triển khác nhau như vậy, để thiết lập trong các tế bào thuộc não bộ hệ viền của đứa con, những quan hệ xúc động gắn bó giữa hai mẹ con?
– Thai nhi không những chỉ lo sợ cho mẹ, về mẹ. Thai nhi còn vận dụng những giác quan của mình để đánh thức mẹ, thu lượm tin tức về mẹ… nghe tim của mẹ đập nhịp thế nào…Bao nhiêu cách làm ấy của thai nhi chỉ là những phản ứng vô thức và tự động, chứ không phải là những hoạt động có ý thức. Sở dĩ như vậy, bởi vì cơ quan có phần vụ ghi nhớ ngắn hạn thuộc Não bộ Hệ Viền, bị phong tỏa hoàn toàn, không thể hoạt động.
– Theo cách giải thích của tác giả ARONE, giữa Cơ quan Trí Nhớ ngắn hạn, thuộc Não Bộ Hệ Viền của thai nhi và Hệ Miễn Nhiễm của người mẹ, có những quan hệ tác động qua lại. Chính vì tình huống và điều kiện mang thai, Hệ Miễn Nhiễm của người mẹ bị tê liệt, không hoạt động. Và do đó, cơ quan Trí Nhớ ngắn hạn của thai nhi cũng bị phong tỏa và trở nên vô hiệu hóa hoàn toàn. Trái lại, như sau nầy chúng ta sẽ thấy, vì lý do sức khỏe nếu tính mạng của bà mẹ bị đe dọa trầm trọng, bằng cách nầy hay cách khác, Hệ Miễn Nhiễm của bà cần phải được tái lập. Lúc bấy giờ, cơ quan Trí Nhớ ngắn hạn của thai nhi tức thì được giải tỏa. Thai nhi sẽ có khả năng ghi nhớ tất cả những gì xảy ra cả trong hai chu kỳ Lo Sợ và Sảng Khoái. Đó là lý do cơ bản giải thích sự khác biệt nguyên thủy giữa một thai nhi thông thường, thông lệ vả một thai nhi bắt đầu có mầm mống và nguy cơ tự kỷ, vào cuối tam cá nguyệt đầu tiên của cuộc sống trong bào thai của mẹ.
Phần thứ Hai : Nét khác biệt đầu tiên giữa thai nhi thông thường và thai nhi có nguy cơ tự kỷ.
Nét khác biệt đầu tiên và cơ bản, giữa thai nhi thông thường và thai nhi có mầm mống và nguy cơ tự kỷ, xuất phát từ sự có mặt hay vắng mặt của một cơ quan thuộc Hệ Viền, nằm ở chính giữa đầu não của mỗi người. Cơ quan nầy có chức năng phong tỏa Trí Nhớ ngắn hạn. Và khi bị phong tỏa như vậy, Trí nhớ ngắn hạn không thể ghi nhận những gì đang xãy ra. Thai nhi lúc bấy giờ chỉ sống hoàn toàn và trọn vẹn trong giờ phút hiện tại. Sở dĩ Trí Nhớ của thai nhi bị phong tỏa, vô hiệu hóa hay là không hoạt động, là vì Hệ Miễn Nhiễm của người mẹ, từ khi mang thai, bị cấm cản, không thể hoạt động.
Trong vài trường hợp khẩn trương, vì lý do sức khỏe của người mẹ bị đe dọa trầm trọng, bằng cách này hay cách khác, Hệ Miễn Nhiễm phải được tái lập, để cứu sống cả hai mẹ con. Lúc bấy giờ, Trí Nhớ ngắn hạn của thai nhi không còn bị ngăn cản, và trở lại hoạt động bình thường. Nguy cơ tự kỷ bắt đầu xuất hiện và phát triển, với sự cố quan trọng nầy đang xảy ra trong Não Bộ Hệ Viền của thai nhi, ước chừng vào cuối tam cá nguyệt đầu tiên
Phát xuất từ sự cố nguyên thủy nầy, nhiều sự cố đặc biệt khác sẽ từ từ xảy ra cho thai nhi có mầm mống tự kỷ:
– Trước hết, thai nhi, lúc bấy giờ, có khả năng ghi nhớ tất cả những gì xảy ra, trong chu kỳ Lo Sợ cũng như trong chu Kỳ Sảng Khoái và Thư Giản.
– Cùng với khả năng ghi nhớ, thai nhi có khả năng học tập, tiên đoán và tiên liệu, khám phá và rút tỉa những sự cố có tính qui luật, nghĩa là lặp đi lặp lại một cách đều đặn, từ ngày này qua ngày khác.
– Nhờ vào khả năng học tập và ghi nhớ như vậy, thai nhi có nguy cơ tự kỷ, không thuyên giải một cách lệch lạc, nhất là không bao giờ tin tưởng rằng mẹ sắp hấp hối, mẹ sắp biến mất khỏi cuộc đời.
– Cũng vì biết rõ mọi đường đi nẻo về của mẹ như vậy, thai nhi không có gì để lo sợ về mẹ và về số phận của mình. Nói một cách đơn sơ và rõ ràng hơn, thai nhi không cột chặt vận mệnh của mình vào vấn đề sống còn của mẹ. Mẹ chỉ là một biến số trong một phương trình, mà mình có thể tìm ra đáp số. Cho nên giữa mẹ và con, không có những ràng buộc, những quan hệ gắn bó mật thiết, trên bình diện xúc động.
– Với một thai nhi thông thường, mỗi lần mẹ vào giường, nằm xuống, chờ giấc ngủ… là có vấn đề thuyên giải hay là tưởng lầm rằng mẹ có thể sắp chết. Cho nên thai nhi vận dụng mọi giác quan của mình, họa may sẽ có những tin tức về mẹ, chẳng hạn như đưa tai nghe ngóng những nhịp tim của mẹ. Hay là đưa tay đập mạnh, đưa chân chọi vào thành bụng của mẹ. Họa may, một vài tiếng động trở mình của mẹ sẽ mang đến một tia hy vọng. Một cách gián tiếp, nhờ vào bao nhiêu cố gắng tìm kiếm về mẹ như vậy, thai nhi càng ngày càng phát huy những khả năng hoạt động của các giác quan, nhất là thính và xúc giác. Hệ thần kinh trung ương, còn được gọi là Não Bộ, với ba tầng khác nhau là Thân Não, Hệ Viền và Tân Võ Não, cũng càng ngày càng phát huy những hoạt động của mình. Các tế bào càng ngày càng nhân ra thêm nhiều và bắt đầu tiến trình bao bọc các đường giây bằng chất my-ê-lin có tính chất dẫn điện một cách rất nhanh chóng.
– Đối với thai nhi có mầm mống tự kỷ, ngược lại, tiếng động, âm thanh, nhịp tim, tiếng nói… không mang ý nghĩa là những tin vui, những nguồn hy vọng. Cho nên, như chúng ta sẽ thấy sau này, ngôn ngữ không phải là một nhu cầu quan trọng hay là tất yếu. Ngôn ngữ không phải là nhịp cầu, có khả năng nối kết hai mẹ con lại, đồng cảm với nhau.
– Tất cả những nhận định vừa rồi cho phép chúng ta kết luận một cách rõ ràng: Khi một thai nhi không kết dệt những quan hệ ràng buộc, gắn bó và đồng cảm với mẹ, cũng như không lưu tâm nghe ngóng, tìm kiếm những tiếng động của mẹ và có liên hệ đến mẹ…làm sao hài nhi sau này, khi sinh ra, có thể phát huy những quan hệ tiếp xúc và trao đổi với những người khác có mặt trong môi trường sinh thái? Làm sao đi vào lãnh vực ngôn ngữ, để có thể chia sẽ và đồng hành với bao nhiêu ưu tư và hy vọng của người khác, trong lòng Quê Hương và Nhân Loại.
– Trong khuôn khổ của một chương sách, tôi không thể nói thêm nhiều hơn nữa về cách thức giải quyết của thai nhi, khi phải đối diện với sự cố ngưng thở và ngột thở, do cuộc sống chật chội trong bào thai. Bằng cách nào thai nhi giải quyết vấn đề khan hiếm và giảm hạ của những hóa chất có hiệu năng nâng cao sinh lực, như Adrenaline, Dopamine, trong chu kỳ Lo sợ, khi người mẹ im lìm, bất động trong giấc ngủ? Sau cùng, làm sao một thai nhi có nguy cơ tự kỷ, phát huy một cách đặc biệt khứu giác của mình, bằng cách dựa vào những mùi nồng, mùi thối của các phế liệu trong tư cung, để phát hiện và đề phòng vấn đề ngưng thở của mình? Độc giả nào muốn có thêm những tin tức đầy đủ và chi tiết hơn, tôi đề nghị họ hãy tiếp cận với chính tác phẩm của tác giả Douglas M. ARONE.
Phần thứ Ba: Những dấu hiệu đầu tiên về Hội Chứng Tự kỷ
Hài nhi có mầm móng tự kỷ, sau khi thoát ra khỏi cung lòng của người mẹ, đã từ từ trình bày những dấu hiệu đáng lo ngại sau đây.
– Thứ nhất, hài nhi không đưa mắt nhìn thẳng vào đôi mắt của mẹ,
– Thứ hai, khi được mẹ bồng, hài nhi có tư thế co quắp, cong lưng lại thành vòng cung, thay vì vui thích, thoải mái, sung sướng và hớn hở,
– Thứ ba, khi có những đồ vật hay trò chơi quay tròn một cách liên tục, hài nhi có thái độ sững sờ, như bị thôi miên và chìm dần vào giấc ngủ. Phải chăng những cử động ấy gợi lại chu kỳ sảng khoái, với dư thừa liều lượng của hóa chất Dopamine hay Adrenaline, được các cơ quan tiết ra trong đường máu?
1) Triệu chứng thứ nhất có liên hệ đến quan hệ xã hội.
Từ những ngày đầu tiên, thai nhi có mầm mống tự kỷ, có khả năng ghi nhớ và ghi nhận mọi hoạt động của bà mẹ, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, khi ngủ nghĩ… Điều tạo nên cho thai nhi nỗi bận tâm lớn lao nhất là sự cố ngưng thở và ngột thở, chứ không phải là bà mẹ.
Nhưng rốt cùng thai nhi cũng khám phá được một vài thông số quan trong. Thứ nhất, sự cố tạo khổ đau nầy chỉ xảy ra trong chu kỳ Lo Sợ và Kinh Hoàng. Thứ hai, sự cố nầy đạt cao điểm vào lúc ban đêm. Thứ ba, sự cố nầy được báo trước bằng những loại mùi nồng cay và khó chịu của các phế liệu thuộc đường tiêu hóa. Thứ bốn, sự cố nầy xảy ra khi liều lượng của hóa chất tạo ra hưng phấn, như Adrenaline, bị giảm hạ. Thứ năm, sự cố nầy thay đổi, trong chiều hướng thuận lợi, mỗi lần bà mẹ bị đánh thức, đứng dậy và di chuyển từ chỗ nầy qua chỗ khác.
Xuyên qua bao nhiêu nhận xét ấy, bà mẹ chỉ là một biến số trong một phương trình mà thai nhi cần giải quyết. Ngoài ra, hoàn toàn khác với thai nhi “thông thường, thuộc số đông”, thai nhi có mầm mống tự kỷ không có những xúc động lo âu và khắc khoải về sức khoẻ và vận mệnh của bà mẹ.
Sau khi ra khỏi tử cung của bà mẹ, hài nhi cũng chỉ lặp lại một thói tục đã được thai nhi học đi học lại, trong suốt thời gian chín tháng mười ngày.
2) Triệu chúng thứ hai là những điệu bộ và cử động đu đưa qua lại, từ trước ra sau, từ bên phía nầy qua phía bên kia, hay là cúi xuống và ngẩng lên, một cách liên tục và đều đặn.
Phải chăng khi làm những điều ấy, hài nhi đang tạo lại cho mình những cảm nghiệm thanh nhàn, vui sướng đã xảy ra cho thai nhi, trong suốt chu kỳ hưng phấn và sảng khoái.
3) Triệu chứng thứ ba là cắn mạnh vào lưng bàn tay và gây ra những thương tích.
Trong những lúc bị ngột ngạt và ngưng thở, thai nhi đã có thói quen dùng hai bàn tay làm những cử động múa máy, vẫy qua vẫy lại, hay là cho vào miệng bú mút… Càng bú và mút mạnh, thai nhi càng có thêm liều lượng Adrenaline. Lúc bấy giờ, thai nhi chưa có răng. Những cử động ấy không làm thiệt hại bao nhiêu, ngoài những cái lợi thực tiển, có khả năng làm giảm hạ những xúc động căng thẳng. Trái lại, khi hài nhi đã có một vài cái răng, những cử chỉ và bộ điệu bú mút với vận tốc nhanh và mạnh có thể tạo nên những vết thương lở lói và bị nhiễm trùng.
4) Triệu chứng thứ bốn là bám chặt vào những thói quen, những nghi thức, những chương trình. Hệ quả là trẻ em có nguy cơ tự kỷ, dễ bùng nổ, tức giận, khóc la om sòm… khi có những thay đổi nhỏ nhặt xảy ra trong cuộc sống thường ngày.
Để hiểu rõ nguồn gốc của triệu chúng nầy, chúng ta hãy đi theo trẻ em, trở lui với cuộc sống trong bào thai, vào những ngày đầu tiên, khi cơ quan trí nhớ ngắn hạn không còn bị phong tỏa và vô hiệu hóa. Sở dĩ như vậy, vì Hệ Miễn Nhiễm của bà mẹ cần phải được tái lập, với bất cứ giá nào, do yêu cầu của tình trạng sức khoẻ của cả hai mẹ con.
Sau khi trí nhớ trở lại tình trạng bình thường, thai nhi có mầm mống tự kỷ có thể nhớ tất cả những gì xảy ra, trong cuộc sống hằng ngày của hai mẹ con. Thai nhi có thể tiên liệu, tiên phòng tất cả. Không có gì có thể xảy ra, ngoài thứ tự và chương trình mà thai nhi có thể dự liệu. Chính khả năng ấy tạo ra cho thai nhi một cảm nghiệm “an toàn tuyệt đối, bất khả xâm phạm”. Trẻ em có nguy cơ tự kỷ, khi thoát ra khỏi lòng mẹ, vẫn mang theo những nhu cầu an toàn, ấy được ghi khắc vào sâu trong các tế bào của Não Bộ Hệ Viền.
5) Triệu chứng thứ năm có những liên hệ mật thiết với Khứu và Thính giác. Thứ nhất trẻ em có nguy cơ tự kỷ, thường có xu thế “NGỬI, HÍT”, để tìm lại những dấu vết quen thuộc của mình hay là để kiểm chứng tính chất bất biến và thương hằng thường trụ của người và vật dụng được yêu chuộng. Phải chăng đó là vết tích trong cách làm của thai nhi : dựa vào mùi nồng cay và khó chịu , để tiên liệu sự cố ngột thở và ngưng thở và tìm cách đối phó.
Ngoài ra, trẻ em tự kỷ cũng thường có thói quen bịt tai lại, khi nghe những âm thanh thuộc tấn số trầm và thấp, vì đây là những tần số không được ghi nhận trong não bộ đặc trách về thính giác của thai nhi trong tử cung. Vì mới lạ, những tần số nầy bị trẻ em từ chối và loại thải, bằng cách bịt tai lại.
Phần thứ Tư : Phương thức Chuyển Hóa
Nhằm kết thúc Chương thứ Sáu nầy, tôi cố gắng nối dài lối nhìn của tác giả Douglas M. ARONE, bằng cách sơ phác một vài phương hướng chuyển hóa, nhằm giúp trẻ em có nguy cơ tự kỷ vượt qua những khó khăn của mình, trước khi đi vào giai đoạn 7 tuổi.
Suốt thời gian 9 tháng của thai nhi, trong tử cung của bà mẹ, nguy cơ tự kỷ đã được ghi nhận và khắc sâu vào các tế bào thần kinh, thuộc não bộ hệ viền, như những chương trình, trong máy vi tính.
Trong lứa tuổi từ 0 dến 7 năm, khi mọi tế bào thuộc hệ thần kinh trung ương còn ở trong tình trạng uyển chuyển, dễ uốn nắn, một số lớn tế bào bị loại thải, vì không còn thích ứng với cuộc sống và nhu cầu hiện tại, do môi trường đòi hỏi. Một số khác, vì thực tế của môi trường, cần đổi mới hay là điều chỉnh lại những chương trình của mình. Một số sau cùng được củng cố và tăng cường, để thực hiện chức năng của mình, một cách hữu hiệu hơn.
Một cách đặc biệt, những tế bào thần kinh có chương trình tự kỷ đã được ghi khắc, trong thời gian thai nhi ở trong tử cung, bây giờ cũng phải được tái điều hướng và điều hợp, trong 3 chiều hướng vừa được trình bày. Nếu biết can thiệp một cách hữu hiệu, đúng lúc và đúng với nhu cầu cơ bản của trẻ em, môi trường có thể sáng tạo điều kiện thuận lợi, nhằm giúp trẻ em vượt qua hay là chuyển hóa những nguy cơ tự kỷ của mình.
Chúng ta có 3 cách làm:
Thứ nhất, chúng ta KHÔNG củng cố và tăng cường những chương trình lo sợ và bất ổn, thuộc chu kỳ phát triển thứ nhất của thai nhi. Tự khắc, một số tế bào sẽ dần dần bị loại thải. Chúng ta không cũng cố, bằng cách loại trừ trong quan hệ giữa chúng ta và trẻ em những lời nói và thái độ tố cáo, kết án, trừng phạt, đánh đập, bôi nhọ, đàn áp…
Thứ hai, chúng ta cũng cố và tăng cường tối đa những yếu tố tích cực và năng động, có mặt trong chu kỳ hứng khởi và vui sướng của thai nhi. Nói cách khác, chúng ta có mặt với trẻ em, tạo an toàn cho trẻ em, biết khen thưởng trẻ em, phản ảnh, gọi ra ngoài những xúc động vừa hiện hình trong nội tâm của trẻ em. Ngoài ra, với những sinh hoạt Tâm Vận Động bình thường, chúng ta cho phép trẻ em thực thi những động tác nhảy vọt, quay tròn, leo lên, tuột xuống. Những trò chơi như chiếc đu, chiếc võng, con ngựa gỗ để cưỡi và nhún lui nhún tới… cần được trang bị đầy đủ, bằng số lượng cho mỗi lớp học. Những điệu vũ, điệu múa cũng cần được phát huy cho từng nhóm nhỏ. Nói tóm lại, chúng ta thỏa mãn những nhu cầu vận động của trẻ em. Cho phép trẻ em trở lui với chu kỳ hưng phấn và sảng khoái của thai nhi.
Sau cùng, chúng ta chuyển hóa những gì là tự động và máy móc, trong mỗi hành vi của trẻ em, bằng cách trở thành một đối tượng vui thích cho trẻ em, có mặt với trẻ em, phản ảnh trẻ em, lặp lại cách phát âm của trẻ em.
Nói tóm lại, chúng ta sáng tạo cho trẻ em, vì trẻ em và với trẻ em. Lời nói của Simone Weil đáng được chúng ta chọn làm của mình: «Không phải con đường chúng ta đi đầy tràn khó khăn. Nhưng chính khó khăn phải trở thành con đường đi của chúng ta». Nói cách khác, chúng ta biến khó khăn thành một tiếng nói thân thương gọi mời chúng ta vươn lên, mở rộng chân trời cho chính mình và cho trẻ em đang có nguy cơ tự kỷ.
YÊU THƯƠNG là một Động Từ
«Bất kỳ một câu hỏi nào được nêu lên, Thương yêu là câu trả lời,
«Bất kỳ một vấn đề gì xuất hiện, Thương yêu là câu trả lời,
«Bất kỳ một cơn bệnh nào đang đe dọa và hoành hành, Thương yêu là câu trả lời,
«Bất kỳ một nỗi đớn đau nào đang tiến lại, Thương yêu là câu trả lời,
«Bất kỳ một xúc động sợ hãi nào đang trào dâng, Thương yêu là câu trả lời,
«Thương yêu luôn luôn là câu trả lời, trong mọi tình hưống, vì chỉ có Thương yêu là Tất Cả».
Tôi xin mượn câu nói của tác giả G. G. JAMPOLSKY để kết thúc cuốn sách bàn về «Nguy Cơ Tự kỷ». Và câu nói ấy cũng có thể tóm gọn một cách khéo léo, tất cả mọi dự án can thiệp và dạy dỗ, mà tôi đã trình bày, từ trang đầu tiên đến đọan cuối cùng.
Thế nhưng, Thương yêu có nghĩa là gì, trong toàn bộ tác phẩm nầy?
Chắc hẳn, đó không phải là một ý niệm thuần đơn, hoàn toàn lý thuyết và trừu tượng. Đó cũng không phải là một câu nói ở đầu môi chót lưỡi mà thôi. Phải chăng đó chỉ là một «ý đồ», mà tôi muốn áp đặt cho kẻ khác, khi chính con người đích thực của tôi đang tràn đầy chất liệu bạo động và kết án, tố cáo vàức chế?
Để cảm nghiệm trong từng tế bào và thớ thịt, thế nào là Thương yêu, chúng ta hãy ngày ngày trở lại với cách làm của Tổ Tiên và Cha Ông: Thương yêu là Trời có khả năng mang ánh sáng và hơi ấm cho con cái. Thương yêu cũng là Đất, có khả năng ấp ủ và vun trồng tình người và tính người đang có mặt trong cõi lòng của trẻ em, mà chúng ta giáo dục và dạy dỗ. Chúng ta hãy làm Trời, để cho trẻ em sống lại chu kỳ hạnh phúc của mình, trong cuộc sống của bào thai. Chúng ta hãy làm Đất, để tạo an toàn tối đa cho trẻ em, khi chu kỳ Lo Sợ đang nổi sóng gió, bão bùng và tràn ngập nội tâm của trẻ em. Thương yêu đích thực và trọn vẹn là một Động Từ, chứ không phải là một ý niệm thuần đơn, một nhãn hiệu khô cằn. Động từ trong Anh ngữ, Pháp ngữ, cũng như trong nhiều ngôn ngữ khác, thay hình đổi dạng, tùy vào vị trí và thời gian, cũng như tùy vào cảm tình và ý định của mỗi chủ thể. Thương yêu của chúng ta cũng có khả năng chuyển hóa giống như vậy, nếu Thương yêu có mặt trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi của chúng ta với trẻ em. Cho dù trẻ em có nguy cơ tự kỷ, đến cấp độ nào chăng nữa, nếu nhận đủ liều luợng và chất lượng Thương yêu của chúng ta, trẻ em sẽ chuyển hóa, trong chiều hướng thành người.
Chất lượng Thương yêu có mã lực chuyển hóa, nếu Thương yêu ấy không kết án, trừng phạt, đe dọa, cưỡng chế và loại trừ. Về mặt tích cực, Thương yêu trước hết là XIN chứ không phải là đòi hỏi, đặt điều kiện. Thứ hai Thương yêu là CHO, một cách hồn nhiên và hạnh phúc, những gì đang có mặt trong điều kiện thực tế và thực tại của chúng ta. Thứ ba, Thương yêu là NHẬN những gì trẻ em đang cho, thuộc cây nhà lá vườn của mình. Thậm chí trong tình huống hiện tại, những quà tặng mà trẻ em mang đến cho chúng ta, đang chỉ là những bức họa nguệch ngoạc, những bộ mặt méo xèo hay là những triệu chứng đáng lo ngại. Trong lòng biển mặn bao la của Thương yêu, mọi phế liệu sẽ dần dần được chuyển hóa, bằng cách này hay cách khác. Ngoài ra, quà tặng mà trẻ em mang đến, cũng có thể là những xúc động lo sợ, buồn phiền, tức giận, trầm cảm. Tuy nhiên, đằng sau những xúc động tê liệt và tiêu cực ấy, đang thấp thoáng những lời xin, những thú nhận: «Mẹ ơi, Ba ơi, con đang cần… nhưng con không biết con đang cần gì, con không biết gọi tên làm sao. Cách con nói là những tiếng thét la, những điệu bộ, những cử chỉ lắc qua lắc lại».
Sau cùng Thương yêu cũng có nghĩa là Từ Chối, nói Không, khi trẻ em có những hành vi bạo động, đập đánh, hủy hại, hoặc trên chính bản thân mình, hoặc trên một em bé khác. Theo lối nói của Steve BIDDULPH, Thương yêu vừa Cương, vừa Nhu. Vừa biết cho. Nhưng đồng thời, Thương yêu cũng là qui luật, giới hạn hay là cấu trúc, như lối nói thời trang thường được sử dụng, trong lãnh vực giáo dục và sư phạm đương đại.
Trong tinh thần và ý hướng ấy, nhằm kết thúc cuốn sách này, sau khi đã khẳng định lối nhìn của mình, tôi xin nghiêm cung và cẩn trọng lắng nghe lời dạy bảo của Tổ Tiên và Cha Ông, trong truyền thống Lạc Hồng:
«Con hãy lấy Hạnh của Đất mà sống:
Đất bị người người khạc nhổ, nhưng vẫn kết sinh hoa lợi cho người người ấm no.
«Con hãy lấy Hạnh của Nước mà sống:
Nước chấp nhận mang vào mình vết nhơ của bao nhiêu bàn tay, để đem về tẩy luyện trong lòng Biển Mặn.
«Con hãy lấy Hạnh của Khí mà sống:
Khí đi vào bên trong lòng mỗi người, để mang dưỡng sinh cho từng tế bào, từng hạt máu, không quên sót một ai.
«Con hãy lấy Hạnh của Trời mà sống:
Trời ở trên cao thật cao. Nhưng đồng thời, Trời ở dưới thấp thật thấp. Không có Trời, con không có chi hết. Nhưng chính Trời cũng không có chi hết. Trời trống không, để gọi mời con trở thành Diệu Hữu.
«Con hãy lấy Hạnh của Lữa mà sống:
Ai ấm áp cho bằng Lữa? Nhưng ai khinh thường Lữa, tự khắc người ấy rước họa vào mình. Lữa không phải là Trời. Nhưng Lữa thay thế Trời, khi con ở trong đêm tối và trải qua những ngày đông lạnh lẽo.
«Con hãy lấy Hạnh của Đêm mà sống:
Nhờ đêm, một ngày mới bắt đầu trở lại, sau khi nhọc lụy được giấc mơ ủi an, ấp ủ và chuyển hóa. Nhờ Đêm, mắt con mới thấy được rằng: Tên con đã được viết sẵn bằng ánh sao lấp lánh, giữa Đại Duơng Ngân Hà của Vũ Trụ.
«Con hãy lấy Hạnh của Mẹ mà sống:
Mẹ là người để cho con học thương và học ghét. Thương mà không bị mất mát và bó buộc. Ghét mà không sợ bị loại thải và bỏ rơi. Thương Mẹ, không phải vì Mẹ vô tì tích. Ghét Mẹ, không phải vì Mẹ là tinh yêu ma quái. Trong người Mẹ dễ thương, còn nhiều chỗ, để cho con học ghét. Trong người Mẹ dễ ghét, còn vô số điểm, để cho con học thương. Nhờ biết thương và biết ghét, con mới học được bài học làm người».